Hệ tim của chúng ta bao gồm tâm nhĩ và tâm thất. Trong trạng thái bình thường, tim đập đều và nhịp nhàng, tuân thủ các xung động từ nút xoang xuống tâm thất, được gọi là nhịp xoang. Rung nhĩ xảy ra khi nút xoang không thực hiện chức năng phát xung động đều và nhịp nhàng, gây rối loạn nhịp tim. Các triệu chứng của rung nhĩ bao gồm hồi hộp, đánh trống ngực, tim đập nhanh hoặc cảm giác khó chịu ở ngực. Tuy nhiên, khi rung nhĩ tiến triển thành mạn tính, người bệnh thường không cảm nhận các triệu chứng này.
Rung nhĩ là một trong những rối loạn nhịp tim phổ biến nhất hiện nay và số người mắc rung nhĩ đang gia tăng trên toàn thế giới. Năm 2016, đã ghi nhận có 43,6 triệu người mắc rối loạn nhịp tim, trong đó có rung nhĩ. Dự kiến đến năm 2060, số lượng người mắc rung nhĩ sẽ tiếp tục tăng lên không ngừng.
Rung nhĩ có hậu quả nặng nề và không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe và tử vong, mà còn ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh. So với những người không bị rung nhĩ, người mắc rung nhĩ có nguy cơ tử vong cao gấp 1,5 đến 3,5 lần, suy giảm nhận thức cao gấp khoảng 1,4 lần và tỷ lệ mắc chứng tâm thần phân liệt cao gấp 1,6 lần. Rung nhĩ cũng gây ra 20-30% trường hợp tai biến mạch não và làm giảm chất lượng cuộc sống của 60% bệnh nhân. Ngoài ra, rung nhĩ tăng nguy cơ suy tim, trầm cảm và làm tăng khả năng phải nhập viện để điều trị.
Có một số yếu tố nguy cơ làm tăng khả năng mắc rung nhĩ, bao gồm nam giới cao tuổi và các tình trạng bệnh lý như bệnh động mạch vành, suy tim, bệnh van tim, tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh thận mạn tính, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, viêm nhiễm, béo phì, chứng tắc nghẽn đường thở khi ngủ, hút thuốc lá, uống nhiều rượu/bia, rối loạn lipid máu, lối sống ít vận động và các bệnh lý cấp tính.
Rung nhĩ tạo ra nguy cơ tăng cho biến chứng đột quỵ. Khi bị rung nhĩ, các cơ tâm nhĩ không co bóp đều và dần dần giãn ra. Sự giãn ra của buồng tâm nhĩ kết hợp với sự co bóp không đồng đều giữa các vùng cơ tâm nhĩ làm cho dòng máu không chảy từ tâm nhĩ xuống tâm thất theo nhịp nhàng, dẫn đến nguy cơ hình thành cục máu đông trong tâm nhĩ. Khi cục máu đông này được tạo ra và trôi theo dòng máu, nó có nguy cơ tắc mạch. Nếu cục máu đông trôi tới não, nó có thể gây tắc động mạch não và gây đột quỵ. Nếu cục máu đông trôi tới động mạch vành, nó có thể gây nhồi máu cơ tim. Nếu cục máu đông đi theo động mạch khác, nó có thể gây tắc mạch đó. Các bác sĩ sử dụng thang điểm CHA2DS2-VASc để đánh giá nguy cơ mắc biến chứng tắc mạch cho người bệnh rung nhĩ. Người bị rung nhĩ có thang điểm này càng cao, nguy cơ mắc các biến chứng tim mạch càng lớn. Thuốc chống đông được sử dụng để giảm nguy cơ tắc mạch ở người bệnh rung nhĩ.
Vì vậy, rung nhĩ là một rối loạn nhịp tim phổ biến, số lượng người mắc rung nhĩ đang tăng, và có nhiều yếu tố nguy cơ làm tăng khả năng mắc rung nhĩ. Rung nhĩ gây nguy cơ cao cho các biến chứng như đột quỵ. Người bệnh rung nhĩ cần thăm khám y tế, đánh giá nguy cơ tắc mạch và được điều trị phù hợp để giảm nguy cơ mắc các biến chứng tim mạch.